KHÔNG GHI TIỀN LÃI TRONG ĐỐI CHIẾU CÔNG NỢ NÊN TÒA BÁC YÊU CẦU ĐÒI TIỀN LÃI
Rõ ràng trong các biên bản này không ghi nhận về nội dung tiền vật liệu tính trên khối lượng theo phương thức trả sau và lãi suất chậm trả, mà xác định số nợ bị đơn phải trả cho nguyên đơn tại một thời điểm cụ thể.
Biên bản này do nguyên đơn tự nguyện ký xác nhận nên theo Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015, nội dung này có hiệu lực đối với các bên.
Nếu nguyên đơn cho rằng biên bản ngày 31/3/2014 và các biên bản đối chiếu công nợ khác chưa thể hiện hết ý chí của nguyên đơn vì tại thời điểm ký xác nhận, hai bên chưa tính toán đến tiền vật liệu tính trên khối lượng theo phương thức trả sau và lãi suất chậm trả thì nguyên đơn phải chứng minh.
Chứng cứ của nguyên đơn là bảng thống kê tình hình giao hàng và thanh toán nhưng tình hình giao nhận hàng và thanh toán tiền hàng xảy ra trước thời điểm xác lập giao dịch đối chiếu công nợ.
Theo quy định tại Điều 121 Bộ luật dân sự năm 2015 về giải thích giao dịch dân sự, khi giao dịch có nội dung khó hiểu thì giải thích theo tập quán.
Tập quán trong lĩnh vực kế toán, biên bản đối chiếu công nợ khách hàng là căn cứ để kiểm tra tình hình thanh toán tiền hàng giữa bên mua và bên bán. Biên bản này do nguyên đơn lập, tức là nguyên đơn đã từ bỏ quyền yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả tiền lãi và tiền vật liệu tính trên khối lượng theo phương thức trả sau, nếu có.
Từ đó theo Khoản 1 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn không có cơ sở để yêu cầu bị đơn thanh toán tiền vật liệu tính trên khối lượng theo phương thức trả sau là 112.698.800 đồng và lãi suất chậm trả 207.508.346 đồng. Nghĩ nên bác hai yêu cầu này của nguyên đơn.
———————————————————–
Địa chỉ: 83 Nguyễn Cư Trinh, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Hotline: 090 649 8882
Mail: Contact@lawmmt.com